17 đặc sản Hà Giang – Cập nhật 2017

Đăng ngày 25/01/2024

Đặc sản Hà Giang rất phong phú, có thể kể đến như: thắng dền Mèo Vạc, mật ong bạc hà, thịt chuột La Chí, cháo ấu tẩu, … luôn làm đắm say biết bao nhiêu du khách phương xa khi một lần được nếm thử.

Tại bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ cho bạn các đặc sản ngon và nổi tiếng nhất của Hà Giang.

1. Thịt chuột La Chí

Hà Giang là mảnh đất tập trung nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, mỗi tộc người lại có tín ngưỡng văn hóa khác nhau, và nền ẩm thực phong phú, đa dạng. Trong đó phải kể đến là món thịt chuột – một món ăn độc đáo của người dân La Chí nơi đây.

Nếu như các bạn có dịp lên Hoàng Su Phì, chắc chắn khi hỏi về các món đặc sản nơi đây, ngoài thắng cố, rượu ngô của người Mông, lợn cắp nách của người Mán, thịt chua của người Nùng, thì chuột khô chính là “đặc sản đại diện” của người La Chí.

Con chuột trong văn hóa của người La Chí là vật hiến tế trong lễ cúng Thần Rắn tại rừng cấm Me Meo và là món ăn không thể thiếu trong mọi lễ cúng từ cúng tổ tiên, cúng lúa mới, cúng xuống đồng, cúng hồn cây lúa, cúng rừng, cúng núi, cúng sông suối, hoặc lễ cúng bắt ma, lập bàn thờ, lễ cưới…

Người dân La Chí thường coi món thịt chuột là món ăn hàng ngày, quanh năm suốt tháng cũng giống như người Kinh ăn thịt lợn vậy. Cứ đến mùa lúa chín, cánh đàn ông trong bản lại kéo nhau đi săn thịt chuột, cho tới khi mùa gặt kết thúc, chuột đồng hết chỗ ẩn nấp sẽ trốn vào rừng vầu, rừng tre, rừng chít… thì người ta lại vào rừng đặt bẫy, đào hang bắt chuột.

Thịt chuột được bà con La Chí chế biến thành nhiều món ăn khác nhau nhưng phổ biến nhất là món: nướng và treo gác bếp.

Để chế biến hai món này, người ta phải nhúng chuột vào nước sôi, vặt lông rồi dùng que tre xiên chuột đem thui trên bếp rơm cho đến khi da chuột vàng rượm. Mổ bụng, lọc bỏ nội tạng, rửa sạch, xát mắm, muối, mì chính, thảo quả, tiêu rừng cùng các gia vị khác. Nếu chọn cách ăn nướng thì chỉ cần kẹp que tre nướng trên bếp than củi giữa nhà cho chín là ăn được ngay. Còn với món thịt chuột khô thì tẩm gia vị rồi đem treo trên gác bếp. Lửa và khói sẽ làm cho thịt chuột khô quắt lại, cứng như khúc củi để cả năm trời cũng không hỏng, khi nào ăn thì họ lại gỡ xuống.

2. Rượu hoẵng

Rượu hoẵng là loại rượu truyền thống trong ngày Tết và những ngày lễ truyền thống của người Dao Tiền. Rượu không chỉ nổi tiếng bởi vị ngon mà còn có nhiều công dụng tốt cho sức khỏe.

Gọi là rượu hoẵng, nhưng rượu được làm chủ yếu từ men gạo không pha trộn bất cứ thứ gì. Rượu được nấu từ gạo nếp nương, vo sạch cho vào nồi đã đun sôi nước; chờ đến khi nồi cơm sôi, dùng đũa đảo qua 1 lần cho đều rồi chắt hết nước và vần xuống than cho đến khi cơm chín.

Rượu truyền thống trong ngày Tết và những ngày lễ truyền thống của người Dao Tiền

Khi cơm chín thì rải đều cho nguội, cách làm rượu hoẵng khá lạ so với những gì tôi biết về nấu rượu ở các vùng miền đó là trước khi ủ thì phải rửa qua nước để các hạt cơm nó rời ra, hay là phải ủ ngoài từ vài ba ngày trước khi đưa vào ủ chính thức và chính những điều này đã làm cho rượu Hoẵng của dân tộc Dao có những hương vị riêng. Sau khi cơm đã lên men đủ độ thì sẽ được cho vào chum hoặc xô, thùng. Sau đó dùng một cái chai đục thủng nhiều lỗ và nén xuống ở giữa để khi có rượu sẽ chảy vào đấy.

Ngày nay, rượu hoãng không chỉ dùng phục vụ các lễ hội của dân tộc mà còn có trong các nhà hàng tại miền quê, các công trường, lâm trường cũng như nơi cộng đồng.

Kết hợp sử dụng rượu hoẵng cùng với một số loại thuốc y học cổ truyền của dân tộc sẽ giúp chữa các bệnh như: bênh dạ dày (rượu hoẵng hầm với nghệ đen và rễ già của dây mật gấu rừng), các bệnh về sỏi trong cơ thể con người như: sỏi mật, sỏi thận, sỏi đường tiết liệu (một liều rượu hoẵng vừa phải hầm cùng dây già của lá)…

Đặc biệt, với phụ nữ sau khi sinh có thể dùng rượu hoẵng hầm với gà ri, nghệ vàng, gừng đỏ và một số loại thuốc ở vùng dân tộc, sẽ giúp bồi bổ cơ thể, nhanh chóng phục hồi sau khi sinh và giúp phòng, chống các bệnh như: hậu sản, sa dạ con hoặc thiếu sữa… rất hiệu quả.

3. Lợn cắp nách Hà Giang

Hà Giang không chỉ thu hút bước bởi cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng mà còn bởi kho tàng ẩm thực phong phú như thắng dền, khâu nhục, cơm lam Bắc Mê… và cả lợn cắp nách nữa.

Trên đường đi đến chợ phiên Đồng Văn, Dolly khá ấn tượng với hình ảnh người dân tộc dắt, ôm, đeo bên mình những chú lợn khá bé chỉ vừa đủ “kẹp nách”, có lẽ vì thế nên chúng có cái tên khá lạ là lợn cắp nách. Nghe người dân nơi đây nói thì lợn cắp nách là giống lợn đặc trưng truyền thống của vùng cao, được lai giữa lợn rừng với lợn Mường và có cách chăn thả khá đặc biệt. Khác với những chú lợn nuôi ở dưới xuôi, những chú lợn con ở đây, khi mới sinh ra sẽ được chăn thả rông mà không cần chuồng trại hay chăm sóc đặc biệt gì. Chúng sẽ phải tự kiếm thức ăn trong vườn, ngoài rừng… ăn rau dại, bắp ngô, củ sắn… Vì cách chăn nuôi như vậy nên có nuôi hàng năm trời thì trọng lượng của chúng cũng chỉ đủ… “cắp nách” nhưng bù lại thịt của chúng rất chắc, thơm, nhiều nạc và ít mỡ.

Lợn cắp nách có thể chế biến thành nhiều món như tiết canh, nướng, hấp, kho; hoặc dùng xương ninh thành món canh. Tuy nhiên trước khi chế biến chúng thường được đem thui trên lửa; sau đó làm sạch để riêng từng phần: thịt ba chỉ, thịt mông thì dùng để hấp; đầu và bụng thì chế biến thành món giả cầy; bộ lòng làm sạch để luộc hoặc làm món lòng dồi cũng rất hấp dẫn… nhưng với Dolly thì món thịt lợn cắp nách nướng là ngon nhất. Thịt nướng ăn vừa giòn vừa ngọt, mà không bị ngấy của mỡ lại còn thơm mùi của núi rừng, mùi của lá móc mật… ăn thịt thú rừng mà không hề phạm pháp thật là sướng đã đời.

Ăn lợn cắp nách ở đâu

Lợn cắp nách là món ăn phổ biển ở vùng cao, các bạn có thể ăn ở bất kỳ quán nào ở Hà Giang hay trong chợ phiên.

4. Hồng không hạt Quản Bạ

Nhắc đến huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, hẳn các bạn thường nghĩ ngay đến danh thắng núi Đôi Quản Bạ với vẻ đẹp đầy sức sống, nhưng ít ai biết được nơi đây còn nổi tiếng với giống hồng không hạt, một loại trái cây ngọt lành đã trở thành sản phẩm đặc trưng của Hà Giang từ khá lâu.

Nằm ở độ cao 1000 mét so với mực nước biển, Quản Bạ có khí hậu mát mẻ quanh năm, thuận lợi cho sự phát triển của nhiều loại cây trồng đặc biệt trong đó có giống hồng không hạt

Hồng Quản Bạ thường ra hoa từ tháng 3, kết quả vào tháng 4, và chín từ khoảng tháng 8 đến tháng 11. Chúng tôi quay lại Quản Bạ vào đúng lúc hồng đang vào vụ thu hoạch, khắp vườn là bạt ngàn quả hồng sai trĩu cành nằm lẩn khuất giữa các tán lá.  Những quả hồng to bằng quả trứng gà, khi mới hái có vỏ xanh ương vàng, láng bóng trông thật thích mắt. Khác với loại hồng mọng, hồng không hạt vừa hái xuống chưa ăn ngay mà phải đem ngâm nước sạch vài ngày thì ăn được quả ăn ngọt, giòn, nhiều bột mịn cũng thơm hơn các loại hồng khác mà chúng tôi từng ăn.

Với lợi thế ưu điểm không có hạt, thơm giòn, vị ngọt đậm mà thanh mát, hồng không hạt ngày nay đã trở thành sản phẩm nông sản đặc trưng của Hà Giang. Cứ lên Hà Giang vào mùa hồng thu hoạch từ tháng 8 đến tháng 11, các bạn nhớ đừng quên thưởng thức hồng không hạt của vùng biên giới này.

5. Khâu nhục Hà Giang

Khâu nhục – món ăn lạ tai, lạ miệng được biết đến là một món ăn của đồng bào Hoa Kiều ở Hà Giang, khâu nhục (khau nhục) hấp dẫn và thu hút chúng tôi cũng bởi vị thơm ngon, đậm đà của nó. Đây cũng là món ăn cầu kỳ và chỉ được chế biến khi có việc tiệc tùng, cưới hỏi hoặc lễ tết.

Nhìn đĩa khâu nhục tưởng đơn giản ấy thế mà chế biến rất cầu kỳ, từ việc chuẩn bị các nguyên liệu như: thịt lợn ba chỉ, húng lìu, ngũ vị hương, địa liền, tỏi, ớt, rượu, dấm, hạt tiêu… cho đến khi chế biến, người ta dùng thịt lợn ba chỉ, cắt thành miếng vuông, rửa sạch cho vào nồi luộc kỹ. Khi thịt chín thì vớt ra để nguội. Đem cạo sạch phần bì của miếng thịt, dùng vật nhọn châm vào bì cho đến khi bì chảy mỡ ra thì lau sạch, lấy rượu hoặc dấm bôi vào lớp da bì đó sao cho thấm đều. Rồi cho thịt vào chảo mỡ nóng chao cho vàng đều thì vớt ra.

Miếng thịt vừa vớt ra khỏi chảo đem ngâm ngay vào nước lạnh, cho vào nồi luộc cho thịt săn lại, vớt ra để nguội. Mỗi miếng cắt khoảng 2cm để tẩm các loại gia vị cho đều. Sau đó đem xếp từng miếng thịt vào bát đã có đặt phần bì xuống dưới đáy bát, phần thịt quay lên trên để rắc gia vị được ngấm đều rồi đưa vào nồi hấp cách thuỷ đến khi thịt mềm nhũn thì bỏ ra. Khi ăn thì úp khâu nhục ra đĩa, bên dưới xếp thêm các loại gia vị rau xanh, mộc nhĩ, ớt.

Lần đầu tiên nhìn đĩa khâu nhục, Dolly nghĩ món này sẽ rất ngấy và béo, nhưng khi cắn thử một miếng không có cảm giác béo mà lại thơm hương vị thuốc Bắc, đậm đà, vừa ăn. Nhưng ngon nhất là ăn cùng với xôi nếp và ăn ngay khi nóng.

Lưu ý: Món ăn không quá béo nhưng với những người không ăn được thịt mỡ hay những người cao huyết áp nên ăn vừa phải.

6. Bánh giầy Dao

Người Dao nơi cao nguyên đá có món bánh giầy độc đáo như thể hiện tình yêu nước thiêng liêng của bà con nơi đây.

Từ lâu, cứ đến dịp Tết Hàn thực, bà con nơi đây lại tưng bừng, rộn rã giã bột làm bánh giầy. Để tạo những chiếc bánh giầy trắng tinh, dẻo thơm đòi hỏi nhiều công đoạn vô cùng cầu kỳ. Gạo để giã bánh là gạo nếp nương “thuần chủng”, hạt tròn, khi nấu thành cơm thì dẻo quánh, thơm ngào ngạt.

Đi Hà Giang vào dịp Tết Hàn thực, các bạn sẽ chứng kiến không khí tưng bừng, rộn ràng từ khâu chuẩn bị cho đến công đoạn giã bột làm bánh dày của bà con người Dao nơi cao nguyên đá.

Để tạo những chiếc bánh dày trắng tinh, dẻo thơm ngay từ khi thu hoạch lúa, người dân nơi đây đã chú trọng đến việc phơi thóc, chỉ phơi thóc ở nhiệt độ vừa phải để gạo nếp nương không gãy nát khi xay. Sau đó người ta chọn những hạt gạo nếp nương “thuần chủng”, hạt tròn đều đem vo qua, ngâm bằng nước suối khoảng 2 đến 3 tiếng rồi cho vào chõ để đồ xôi.

Khi xôi chín, người ta đổ ra những chiếc cối bằng gỗ, được khoét rỗng ruột, mùi thơm của gạo nếp tỏa ra thơm ngát, tranh thủ lúc xôi còn nóng, người ta bắt đầu giã bánh, vừa giã vừa dùng chày đẩy dồn cuộn bánh về một phía rồi giã lại theo chiều “cuốn chiếu” để xôi nhuyễn đều. Mỗi người một việc, khi các thanh niên trong bản giã bánh thì chị em phụ nữ sẽ chuẩn bị lá gói. Những tàu lá chuối rừng xanh mướt được lựa chọn kỹ, đem rửa sạch bằng nước suối rồi lau khô bằng khăn sạch. Khi xôi đã nhuyễn thành một khối dẻo dai thì nặn thành khối tròn, trắng mịn lót bên dưới là một lớp lá chuối. Nhìn chiếc bánh giầy Dao trắng tinh, thơm phức đặt giữa mảnh lá chuối rừng khiến món ăn thêm phần hấp dẫn.

7. Bánh cuốn trứng Hà Giang

Trong cái lạnh giá của Hà Nội, chợt thấy nhớ đĩa bánh cuốn trứng Hà Giang biết bao, vẫn còn thoảng đâu đây hương thơm của chả, hành phi hòa cùng vị béo ngậy của lòng đỏ trứng, vị dẻo thơm của vỏ bánh thật đậm đà khó quên.

Không rõ từ khi nào, món bánh cuốn trứng đã trở thành bữa ăn sáng quen thuộc khi lên vùng cao này, chỉ biết rằng đây là món đặc sản độc đáo thu hút khách du lịch khi tới đây. Khác với những chiếc bánh cuốn ở miền xuôi thường là thứ bánh tráng mỏng nhân thịt băm, mộc nhĩ rắc thêm chút hành phi rồi chấm với nước mắm pha chua ngọt thì bánh cuốn ở đây lại rất đặc biệt, nó thường được tráng thêm quả trứng rồi gói lại, kèm theo một bát nước dùng từ nước ninh xương nóng hổi thả thêm hai miếng giò trắng thơm ngon.

Nhưng có lẽ điều tôi hài lòng nhất chính là lúc nào ăn bánh cũng luôn nóng hổi, họ thường không làm sẵn bánh mà chỉ làm khi có khách gọi chính vì thế ăn bánh vào những ngày trời se lạnh thì thật ấm áp biết bao nhiều.

Ẩn dưới lớp bánh cuốn tráng mỏng tang là lòng đỏ trứng, dùng đũa khéo léo lật mép bánh sẽ thấy lòng đào vàng ươm, sánh chảy, nhanh tay dùng đũa chấm bánh rồi cho lên miệng thưởng thức để cảm nhận sự tan chảy của lòng đỏ hòa quyện cùng vị dẻo dai, thơm bùi của bột bánh và hành khô.

Hương vị độc đáo của bánh cuốn trứng Hà Giang khiến tôi luôn nhớ mãi.

Địa chỉ ăn bánh cuốn trứng Hà Giang

  • Thành phố Hà Giang: Bánh cuốn Bà Làn, số 116A Lý Tự Trọng, Tp Hà Giang, tỉnh Hà Giang.
  • Đồng Văn: Hàng bánh cuốn ngay cổng chợ Đồng Văn cũ.

8. Mật ong bạc hà Mèo Vạc

Lần nào lên Hà Giang, mình cũng đi tìm mua bằng được mật ong hoa bạc hà Mèo Vạc bởi mùi vị ngọt đậm đà khác hẳn các loại mật ong mà mình từng nếm thử. Được chính tay những người dân nơi đây làm ra từ chăm sóc ong rồi thu hoạch lấy mật, làm nên những giọt mật ong tinh tuý, mang đậm nét đặc trưng của vùng cao nguyên núi đá.

Người Mông vùng cao nguyên đá đã biết vận dụng khéo léo việc ong thường xà đến hút mật từ những đám hoa bạc hà vào trong việc nuôi ong của mình. Họ sáng tạo trong cách sản xuất theo phương thức truyền thống, từ việc trồng hoa ở khu vực nuôi ong nhà mình để chúng ra hút mật nhanh nhất. Bằng cách này, họ đã cho ra những giọt mật ong nguyên chất không pha tạp.

Mật ong hoa bạc hà có mùi thơm riêng, màu vàng ánh xanh, ngọt lịm. Thứ mật này có giá trị bồi dưỡng sức khỏe cần thiết cho người già và trẻ nhỏ, ngoài ra có tác dụng chữa bệnh về đường hô hấp, tiêu hóa, giúp da hồng hào. Vì những đặc tính dược liệu quý cùng hương thơm, mật ong hoa bạc hà xếp hàng đầu về giá thành trong các loại mật ong.

Mật ong hoa bạc hà là chỉ có ở vùng cao nguyên đá Đồng Văn, nơi có loài hoa bạc hà tím biếc tỏa hương thơm dịu nhẹ. Sản phẩm đặc sản quý hiếm này như một món quà quý mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho mảnh đất địa đầu Tổ quốc, cũng như đồng bào đang sinh sống tại đây.

Mua mật ong hoa bạc hà Mèo Vạc

Mật ong hoa bạc hà – Mèo Vạc – Hợp tác xã Tu
ấn Dũng

Tổ 2 thị trấn Mèo Vạc, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.

Điện thoại: 0219 387 1098 – 091 584 2046.

9. Xôi ngũ sắc Hà Giang

Đến Hà Giang vào những ngày phiên chợ, bên cạnh những hàng hóa, nông sản địa phương là những khu hàng ăn với những món ăn quen thuộc như bún, phở, bánh rán… cho đến những món ăn đặc trưng của vùng cao như thắng cố, rượu ngô…và đặc biệt là món xôi ngũ sắc – với màu sắc bắt mắt và là món ăn hội tụ những giá trị truyền thống, ý nghĩa nhân sinh cao đẹp.

Sở dĩ được gọi là xôi ngũ sắc bởi nó khác các loại xôi thường thấy, nó được tạo nên từ năm loại xôi với năm màu khác nhau: màu đỏ, màu vàng, màu xanh, màu tím và màu trắng đại diện cho ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Màu vàng với ý tôn thờ đất đai, cầu mong thổ nhưỡng luôn phì nhiêu, thuận lợi. Màu xanh tượng trưng cho mộc, cầu mong cây cối luôn tốt tươi, thóc đầy nương, ngô đầy bồ. Màu trắng tượng trưng cho kim, màu tím tượng trưng cho thuỷ. Tất cả hợp thành món xôi
không chỉ đẹp mắt mà rất hài hòa giữa âm dương, ngũ hành.

Để có món xôi ngũ sắc, người ta chọn gạo nếp nương đem vo sạch, ngâm trong nước lã từ 6 – 8 tiếng cho gạo nở. Sau đó chia gạo thành 5 phần, mỗi phần tương ứng một màu. Màu đỏ được nhuộm từ gấc, lá cơm đỏ; màu xanh thì lấy từ lá gừng, lá cơm xôi xanh, hoặc vỏ bưởi, vỏ măng đắng, đốt lấy tro ngâm với nước có pha chút vôi; củ nghệ già giã lấy nước giúp tạo màu vàng; màu tím thì dùng lá cơm đen, hoặc lá cây sau. Sau khi nhuộm màu, thì đến công đoạn đồ xôi.

Khâu đồ xôi đòi hỏi phải khéo léo mới có được món xôi như ý muốn. Gạo ngâm màu nào dễ phai nhất thì được cho vào chõ đầu tiên, tiếp đến là các màu còn lại, và màu trắng để trên cùng. Làm sao đồ mỗi màu một chõ riêng là đảm bảo nhất. Một số nơi còn bày thành bông hoa 5 cánh, mỗi cánh một màu, có những nơi bày theo hình ruộng bậc thang, mỗi bậc một màu, có nơi dùng khuôn gỗ đóng thành tháp, nhiều tầng.

Cầm miếng xôi ăn thử, cảm nhận đầu tiên của Hiền đó là vị thơm, dẻo của nếp hòa quyện cùng hương vị riêng của mỗi màu, nó như chứa đựng biết bao tình cảm nồng ấm cũng như tấm lòng mến khách, chân thành cũng như sự vất vả một nắng hai sương của những người làm ra hạt gạt để rồi trân trọng và cảm phục biết bao.

10. Cơm lam Bắc Mê

Trong lần lên Hà Giang chơi, Dolly có dịp thưởng thức và xem người dân nơi đây nấu món cơm lam Bắc Mê khá ngon và ấn tượng, không chỉ bởi hương vị khác lạ mà còn ở cách chế biến.

Cơm lam là món ăn đặc biệt từ cách chế biến cho đến hương vị. Nếu như người miền xuôi thường nấu cơm bằng nồi niêu thì bà con vùng núi lại có cách chế biến vô cùng thú vị đó là nấu cơm bằng ống tre, ống nứa, có lẽ xuất phát từ những lần lên nương, lên dẫy không mang theo nồi niêu để nấu nướng mà đồng bào nơi đây phải tận dụng các nguyên liệu từ thiên nhiên để nấu nướng.

Nguyên liệu để chế biến món cơm lam chính là gạo nếp nương, gạo được vo sạch, xóc cùng một chút muối cho vào một ống tre, ống nứa, đổ nước xâm xấp mặt gạo rồi dùng lá dong tươi hoặc lá chuối khô để bịt miệng ống lại, sau đó đem hơ trên ngọn lửa hoặc trên đống than hồng. Người ta để dọc ống nứa nướng đều từ trên xuống dưới, độ một hai lượt thì gõ mạnh ống nữa xuống đất dăm bảy lần cho gạp từ từ dồn xuống. Đến khi nước cạn thì đặt ống nứa nằm ngang, xoay đều trên ngọn lửa than hồng, đến khi hương thơm của nhựa nứa hòa cùng gạo nương là cơm đã chín. Lúc đầu nghe tả thì có vẻ dễ, nhưng nhìn những bàn tay nhanh thoăn thoắt xoay tròn ống nứa của các chị nơi đây mới thấy để cơm mèo dẻo, chín đều mà không cháy thì thật là khó vô cùng.

Để bảo quản cơm lam được lâu, người ta dùng dao chẻ bỏ lớp vỏ cháy ngoài cùng của ống tre hỉ để lại lớp ruột nứa trắng, ống cơm này để được bảy ngày chẳng sợ thiu. Khi ăn thì chỉ việc chẻ ống nứa ra và thưởng thức, ngắt một nhúm cơm trong khúc cơm dài, chấm với muối vừng rồi đưa lên miệng thưởng thức cơm nương vừa dẻo vừa ngọt hòa quyện cùng mùi thơm của nứa, vị đằm củ
a muối vừng cảm giác hương vị núi rừng như lan tỏa thật thú vị.

Địa chỉ nhà hàng

  • Nhà sàn “Cơm Dân tộc”: Tổ 1, phường Quang Trung, Tp. Hà Giang.
  • Nhà hàng Cơm Việt Nam: Tổ 2, phường Quang Trung, Tp. Hà Giang.
  • Nhà hàng Trung Vân: Tổ 11, phường Trần Phú, Tp. Hà Giang

11. Mèn mén – Hương vị truyền thống của người H’Mong

Mèn mén được gọi là cơm của người H’Mông. Do tập quán sinh sống trên các triền núi cao, giữa rừng đá trập trùng, không đủ đất trồng lúa nên từ bao đời nay, lương thực chính của người H’Mông vùng Tây Bắc là cây ngô. Mèn mén chín người ta dùng muôi để đánh tơi rồi xúc ra bát nhỏ. Thưởng thức mèn mén đúng cách phải nhai kỹ mới thấy vị thơm, bùi, ngọt tự nhiên của núi rừng Tây Bắc.

Mèn mén được làm từ hạt ngô tẻ. Món Mèn mén đòi hỏi tốn nhiều thời gian để thực hiện với các công đoạn: Bóc vỏ, tách hạt ra khỏi lõi ngô, xay hạt ngô thành bột và sàng bỏ bớt vỏ. Sau khi có bột ngô vừa ý, người làm trộn bột ngô với nước, đổ vào chõ và cho vừa nước đủ để đồ. Để có được món mèn mén, người làm phải đồ bột ngô hai lần trên chõ gỗ.

Mèn mén khi đã chín có vị thơm, dẻo, rất đậm đà. Ăn mèn mén bao giờ cũng kèm theo một bát canh. Người Mông thường ăn món này với canh bí để tăng thêm phần hấp dẫn cho món ăn.

Theo quan niệm của người H’Mông: là người con gái H’Mông thì phải biết thêu thùa, biết thương chồng thương con, chăm lo cho bố mẹ chồng và đặc biệt phải biết chế biến món ăn mèn mén. Có thể thấy, mèm mén không chỉ là đặc sản của người H’Mông mà còn là nét văn hóa ẩm thực, thể hiện được quan niệm sống của họ.

Ngày nay, do cuộc sống của người Mông đã đầy đủ hơn, món mèn mén đã không còn là món ăn chính trong bữa ăn hàng ngày nhưng mỗi dịp lễ tết, hội hè…vẫn không thể thiếu món ăn truyền thống “mèn mén”.

12. Phở chua – điểm tâm sáng chợ phiên

Đến Hà Giang, một trong những vùng văn hóa sớm nhất Việt Nam, chúng tôi không chỉ chìm đắm trước cảnh sắc và con người nơi đây với những vườn cam, rừng chè cổ thụ, những thửa ruộng bậc thang ngút ngàn tầm mắt mà còn ngất ngây với những món đặc sản có một không hai như: thắng cố, cháo ấu tẩu, rượu ngô, thắng dền…phở chua.

Phở là món lót dạ buổi sáng quen thuộc mỗi khi đi làm, nhưng phở chua ngọt lại là món ăn lạ miệng, kích thích sự tò mò của tôi. Nghe nói phở chua có nguồn gốc từ Trung Quốc rồi lan sang các tỉnh biên giới phía Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn…vào sau đời Mãn Thanh cách đây khoảng 300 năm. Phở chua có vị chua dịu, thơm, trước đây, món ăn này được dùng trong đám cỗ. Hiện nay, món này được nhiều người chọn làm món điểm tâm trong các buổi chợ phiên.

Nguyên liệu chính để làm nên món phở chua ngọt chính là bánh phở tươi và nước dùng là sự pha trộn khéo léo từ giấm, đường hòa cùng với bột sắn tạo nên thứ gia vị sền sệt, chua ngọt dịu. Bánh phở sau đó được dàn đều ra đĩa phủ lên những lát thịt lợn rán, lạp xưởng rang cháy cạnh, vài miếng thịt vịt quay vàng rộm cùng vài ngọn rau húng thơm, tỏi tươi, đu đủ hoặc dưa chuột nạo và rưới nước dùng lên, nhưng thay vì được chan ngập bát thì nó được chan xâm xấp mặt bánh, khi ăn thì trộn đều lên.

Ẩm thực của Hà Giang rất đa dạng, có nhiều nét đặc trưng riêng mà khó nơi nào có được, món phở chua cũng có ở những nơi khác nhưng việc đến Hà Giang trực tiếp thưởng thức món ăn rồi trực tiếp thưởng thức cái không khí ngồi bên cạnh những cô cậu bé người mông đang húp xì xụp bát phở chua ngọt cũng đã là rất riêng của Hà Giang rồi, một hương vị rất riêng của những tấm lòng hiếu khách của người dân bản địa.

13. Cháo ấu tẩu – độc mà không “độc”

Sau khi đã nếm thử món thắng cố ở chợ phiên Hà Giang, chúng tôi quyết định tìm ăn bằng được món cháo “độc dược” – chào ấu tẩu đặc sản nơi đây.

Lần đầu tiên nhìn thấy củ ấu tẩu, tôi cứ nghĩ nó là củ ấu vẫn thường hay ăn ở dưới xuôi, nhưng nhìn kỹ nó không giống lắm. Loại củ này thường được bà con người dân tộc Mông trồng nhiều trên núi, trong củ ấu tẩu có một lượng chất độc nên khi chế biến phải biết cách nếu không dễ gây ngộ độc cho người ăn. Tuy độc nhưng từ củ ấu, người ta có thể chế biến thành món ăn ngon, độc đáo lại có tác dụng chữa bệnh như nấu cháo hoặc đem ngâm củ ấu tẩu với rượu để thoa ngoài da, trị các chứng bệnh đau lưng, nhức xương.

Nghe cô chủ quán chia sẻ, ban đầu cháo ấu tẩu là bài thuốc giải cảm của đồng bào dân tộc thiểu số, sau người ta biến tấu thêm đôi chút gia vị để tạo hương vị độc đáo cho món ăn. Mỗi nhà sẽ có một bí quyết riêng, nhưng chung nhất là cháo ấu tẩu thường được nấu từ gạo nương, nước ninh chân giò lợn với củ ấu tẩu hầm trong khoảng 3 – 4 giờ để khử bớt độc tố. Khi cháo chín, múc ra bát, rắc hành, tiêu, rau mùi, trứng gà và thịt nạc thăn băm nhỏ. Bưng bát cháo có màu nâu đậm, thơm nức mùi hành, xúc một thìa và thưởng thức, cháo có vị hơi đắng lại ngai ngái và bùi… lúc đầu ăn không quen cảm thấy hơi khó ăn nhưng ăn đến thìa thứ hai thì thấy có vị gì đó là lạ. Từ đắng, bùi, dẻo đến vị ngọt, thơm mang đến cảm giác lạ miệng hấp dẫn.

Cháo ấu tẩu Hà Giang thường được bán quanh năm, nhưng cháo có tác dụng chữa bệnh tốt nhất là vào ban đêm khi ngủ, vì thế các hàng cháo ở Hà Giang thường chỉ mở bán từ 7h tối cho đến tận đêm khuya.

Lưu ý khi ăn cháo ấu tẩu

Thấy cô chủ quán bảo cháo ấu tẩu không nên ăn quá nhiều, chỉ nên ăn một tuần một bát là đủ. Ngoài ra trẻ em cũng không nên ăn vì dễ bị giòn xương.

Địa chỉ ăn cháo ấu tẩu

  • Quán cháo ấu tẩu: đối diện Điện lực tỉnh Hà Giang.
  • Quán cháo ấu tẩu bà Tuyền: Số 416 Nguyễn Trãi, Tp. Hà Giang, tỉnh Hà Giang.
  • Quán cháo ấu tẩu chị Miên: Thị trấn Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.

14. Thắng cố – “Nồi nước” chợ phiên

Nếu ai đã lên các tỉnh miền núi phía bắc, đặc biệt là những huyện vùng cao ở Hà Giang, sẽ đều rất ấn tượng với thắng cố, một món đặc sản của đồng bào dân tộc nơi. Chợ phiên nơi núi rừng lúc nào cũng có thắng cố. Thắng cố có nghĩa là thang cốt, là món canh xương (theo âm Hán Việt). Nhưng cũng có người cho rằng đó là biến âm của từ thoảng, cố theo tiếng H’Mông có nghĩa là “nồi nước”. Không quan trọng cái tên có từ đâu, chỉ biết rằng, thắng cố là món ăn do người Mông tạo ra và là món ăn đặc trưng luôn có trong mọi phiên chợ vùng cao vùng biên.

Thắng cố là món ăn đặc trưng truyền thống của người H’mông,về sau được du nhập sang các dân tộc Kinh, Dao, Tày. Nguyên liệu làm món thắng cố theo truyền thống là thịt ngựa, sau có thêm thịt bò, thịt trâu, thịt lợn và gần như tất cả các phần của chúng đều được sử dụng làm món thắng cố. Thịt được cắt thành những miếng nhỏ, cho vào một chiếc chảo lớn, bắc lên bếp củi cùng chút hương liệu rồi đun sôi. Món này có một mùi nồng đặc trưng mà ai ngửi một lần sẽ nhớ mãi. Màu thắng cố sền sệt, kém hấp dẫn. Ai đến ăn, thắng cố mới được múc ra bát còn nóng hổi, vừa ăn vừa thổi. Thắng cố ăn kèm rau bạc hà, mang hương vị riêng, thêm chén rượu ngô nồng nàn. Muối hoặc bột canh để ngoài, khi ăn, tùy vị mà gia giảm cho vừa miệng mỗi người. Nồi thắng cố to sùng sục sôi, chảo vơi nước cạn, người ta lại tra thêm nước, bỏ thêm gân xương đun tiếp.

Với đồng bào dân tộc vùng cao, đặc biệt là người Mông, thắng cố là món ăn không thể thiếu mỗi dịp xuống chợ. Khi chợ vãn là lúc mọi người ngồi quây quần bên chảo thắng cố; từng bát thắng cố được múc ra, rượu ngô thơm lừng… cuộc vui xuống chợ lúc này mới bắt đầu.

Ăn thắng cố ở đâu Hà Giang?

Nếu muốn ăn thắng cố Hà Giang thì các bạn có thể đến chợ phiên Đồng Văn (chợ mới cách chợ cũ không xa) vào sáng chủ nhật hàng tuần và chợ phiên Mèo Vạc nhé.

15. Thắng dền “gọi bạn”

Với những ai đã từng một lần lên Đồng Văn – Hà Giang cũng đều muốn thưởng thức thắng cố, món ăn chỉ trong những phiên chợ. Nhưng còn có một món ăn ấm áp khác giữa đêm đông lạnh lẽo của vùng cao đó là món thắng dền, một món ăn chơi của người Hà Giang. Sau một hồi lạc bước giữa những món đặc sản Đồng Văn như thịt trâu gác bếp, lợn cắp nách nướng… đây là món ăn ưa chuộng được nhiều người lựa chọn khi dạo bản về đêm

Thoạt nhìn bát bánh thắng dền, mình nghĩ ngay đến món bánh trôi tàu vẫn thường hay ăn, nhưng khi nếm thử thì hóa ra không phải. Bánh thắng dền cũng được nặn từ bột gạo nếp. Mỗi viên bánh được nặn hình tròn, to bằng đầu ngón tay cái, không có nhân sau đó cho vào nồi nước dùng luộc. Đến khi chín, bánh nổi lên thì vớt ngay ra bát nhưng hương vị của bánh thì khác hẳn. Có lẽ vị ngon của bánh lại nằm ở chính thứ hỗn hợp nước dùng là sự hòa trộn giữa cái ngọt của đường, béo ngậy của nước cốt dừa và chút cay nóng ấm của gừng, rồi rắc thêm chút vừng và lạc rang nên hương vị càng thêm hấp dẫn.

Bên cạnh món thắng dền, Đồng Văn còn có món bánh lư khoải, được làm từ bột gạo tẻ, cán mỏng như sợi phở, cũng được luộc lên và ăn cùng nước gừng đường đun sệt cũng ngon không kém.

Ngồi bên cạnh bếp lửa hồng đỏ rực vừa nhâm nhi thưởng thức những viên bánh thắng dền dẻo thơm, bùi ngọt vừa trò chuyện cùng bạn bè, cùng chủ quán về đủ thứ chuyện đêm như dài thêm và ấm áp hơn.

16. Rêu nướng – đặc sản người Tày

Mỗi dân tộc đều có một nền ẩm thực phong phú, đa dạng và người Tày ở Hà Giang cũng vậy, một trong những món ăn quý và đặc biệt đó là món từ rêu. Giống như mọi người, mình vẫn thường nghĩ rêu chỉ là một loài thủy sinh chẳng có tác dụng gì thế nhưng dưới bàn tay khéo léo của người phụ nữ Tày thì nó có thể biến thành một món ăn vừa ngon lại tốt cho sức khỏe.

Theo kinh nghiệm của người Tày, khi đi tìm rêu, họ thường chọn những bãi rêu lớn, ở đó rêu vừa nhiều, vừa ngon. Rêu tươi đem về được vò đập thật kỹ cho sạch nhớt phù sa, sau đó chế biến thành nhiều món.

Sau khi xé tơi rêu thì trộn các gia vị như xả, mùi tàu, lá dăm, lá hẹ và có thể cho 1-2 hạt dổi vào cho thơm cùng với muối, mì chính, cần cái gì thì cho vào tuỳ theo khẩu vị của từng gia đình, sau khi trộn xong gói lá rồi nướng trên than bếp.

Khi nướng, người ta không xoay nhiều lần mà nướng chín một bên, sau đó nướng bên còn lại. Khi bấm thấy mềm là rêu đã chín. Vì rêu ăn theo mùa nên ngoài việc chế biến rêu tươi, người ta còn phơi khô, cất lên gác bếp để dự trữ. Chỉ có khách quý mới được đãi món rêu khô trên gác bếp.

Rêu nướng không chỉ là món ăn được đồng bào dân tộc ưa thích, mà còn có khả năng chữa nhiều bệnh, giúp lưu thông khí huyết, giải độc, giải nhiệt, ổn định huyết áp và tăng cường sức đề kháng. Theo kinh nghiệm dân gian, ăn rêu chống được mụn nhọt, sốt rét, phong hàn. Người đi rừng khi uống nước mưa nước suối, ăn rêu sống hoặc rêu nướng sẽ chịu được cái lạnh, chướng khí sơn lâm. Rêu chủ yếu là chất xơ còn có tác dụng giảm mỡ máu và là các món ăn tốt cho những ai muốn ăn kiêng.

Địa chỉ: Xã Xuân Giang, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang.

17. Cá anh vũ – “Văn Lang đệ nhất ngư”

Khi tìm kiếm thông tin để chuẩn bị cho chuyến du lịch Hà Giang, Dolly khá ấn tượng với loài cá anh vũ (hay còn có tên gọi khác là cá Tiến Vua) không chỉ ở độ quý hiếm mà còn nằm ở cặp môi có một không hai này.

Cá anh vũ có thân dày, thuôn dần về phía đuôi và có hai đôi râu. Thân cá màu xám tro, bụng màu vàng nhạt. Miệng bên dưới rạch ngang, môi dưới rộng hình tam giác, với nhiều gai thịt tròn nổi. Vẩy cá thẳng tắp chứ không so le như các loại cá khác. Loài cá này chỉ ăn rêu tảo, sống ở những hang đá sâu và khi nước lạnh mới mò ra tìm mồi. Vì vậy, việc bắt được một con cá là cả một kỳ công. Vào mùa lạnh, mùa cá anh vũ ra kiếm ăn, nhiều ngư dân phải uống nước mắm, nín thở mà lặn thả cụp, mò cá. Nhiều ngư dân cho biết cá quý thật, nhưng bắt được nó có khi phải đánh đổi cả tính mạng.

Theo truyền thống chế biến cá của khu vực Hạc Trì, ngon nhất vẫn là món cá hấp, cá được rửa sạch rồi mổ và được ướp với gừng, muối và mắm ngon sau đó đặt cá lên trên một lớp lá gừng rồi đưa vào hấp chín. Đây là món được ưa chuộng nhất vì giữ được nguyên hương vị của cá hơn bất cứ các cách chế biến khác. Khi ăn, thường ăn với khế xanh, chuối xanh và bánh tráng mỏng, các loại rau như tía tô, dấp tanh, xương xông… đều là những vị thuốc bổ trợ cho thịt cá anh vũ. Thịt cá anh vũ trắng, quánh và thơm, nhưng có lẽ giá trị nhất lại nằm ở khối sụn môi. Cái khối sụn này chẳng những rất giòn mà tương truyền chữa được rất nhiều bệnh.

Nhiều người còn quan niệm rằng vì cá anh vũ để cung tiến vua và tế thần linh nên ăn cá anh vũ sẽ đem lại điều may mắn. Chính vì vậy, giống cá sông nổi tiếng này hiện có giá rất cao và hiếm.

Nếu bạn thấy hay, chia sẻ ngay trên facebook nhé! →

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *